Welcome Khách

thuvien.ucoz.com

[ Truyện mới · RSS ]
Thuật xử thế của người xưa

Mục lục

LỜI GIỚI THIỆU
PHI LỘ
THAY LỜI TỰA
CHƯƠNG THỨ NHẤT: LÒNG TỰ ÁI
CHƯƠNG THỨ HAI: CHỮ LỄ CỦA Á ĐÔNG
CHƯƠNG THỨ BA: CÓ TÀI MÀ CẬY CHI TÀI
CHƯƠNG THỨ TƯ: ÂN VÀ OÁN

CHƯƠNG THỨ NĂM: ĐẠO CƯƠNG NHU

CHƯƠNG THỨ SÁU: BIẾT… SỐNG

TÂM SỰ CỦA KHUẤT NGUYÊN

PHỤ LỤC: XỬ THẾ CÁCH NGÔN

CHÚ THÍCH


admin đăng vào lúc 8:24 PM, ngày 25-11-2014.


Đối với kẻ quyền quý, kẻ sĩ thường có những cái ngạo khí ấy, cốt để bù vào cái địa vị thấp kém của mình. Bởi vậy, những thói biếm nhẽ kiêu căng thường thấy trong bọn người bất đắc chí… Xem đấy đủ thấy, kẻ dưới, trong cái địa vị thấp kém của họ, khó mà thoát khỏi cái tâm cảm tự ty, cho nên cũng rất khó mà dung tha cái thói ngạo nghễ của người trên: lòng tự ái của họ rất khắt khe, thắc mắc từng ly, từng tý.

Trong tình bạn bè, kẻ có tài hoa hoặc địa vị hơn bạn mình càng phải biết gắt gao gìn giữ chữ Lễ trong tình giao hữu hằng ngày.

*


Cũng một lời nói, cũng một cử chỉ, mà khi là bạn áo vải với nhau thì không có điều gì xích mích, mà lúc kẻ thành công, người thất bại, kẻ cao sang, người dân đã lại không thể tha thứ cho nhau…

Có nhiều người tự hỏi: Ta và anh ấy là một đôi bạn chí thân, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Thế sao ngày nay tình anh em ngày một lạnh nhạt, mặc dầu ở địa vị cao sang mình vẫn không thay đổi tấm lòng. Trong trường hợp nầy, kẻ nghèo kém hơn bao giờ cũng dễ nghĩ mình bị khinh khi. Cái địa vị cao sang của mình là bức rào đã chia đôi tâm hồn. Kẻ thấp kém, vì sợ bị khinh khi, nên hay tỏ ra ngạo nghễ… Vậy muốn nối lại tình bằng hữu, phá tan cái rào giai cấp… kẻ giàu sang hơn cần phải khéo xử nhũn nhặn hơn mới đặng. Cũng như hai bạn mà xích mích với nhau, kẻ không có lỗi phải xin lỗi người có lỗi… đừng để người bạn có lỗi của mình đau khổ về vấn đề thể diện…

*


Phan Thanh Giản có một người bạn thân quen biết từ khi còn đi học. Bạn cụ học giỏi mà nhà nghèo, không thi cử, chỉ lấy việc ruộng nương mà làm kế sinh nhai. Cụ Phan, như ta đã biết, theo con đường hoạn lộ.

Khi đi kinh lý đất Nam kỳ, có dịp cụ ghé thăm người bạn cũ. Một viên kinh lược đến đâu, cố nhiên là có quân lính tiền hô hậu ủng. Nhưng lúc tìm thăm bạn, cụ Phan có cái nhã ý, tránh các nhắc nhở trước bạn áo vải của mình cái quyền tước cao sang hiện thời của mình. Cụ cho quân lính dừng lại cách xa nhà bạn có trên mấy dặm… Rồi mặc áo thâm, bịt khăn đóng… lững thững một mình tiến vào căn nhà lá lụp xụp… Khi cụ đến nhà, ông bạn mắc đi làm ngoài ruộng, không hay cụ đến. Cụ lên võng nằm chờ cho đến tối, ông bạn mới về. Gặp nhau mừng rỡ, bạn ông lật đật dọn cơm, trên mâm chỉ có dĩa rau luộc và một dĩa mắm kho. Cụ cùng bạn ngồi ăn ngon lành vui vẻ như khi còn áo vải…

Ngày xưa, cách xử thế thật khôn ngoan vô cùng, mà cũng nhân hậu vô cùng.

(HẾT PHẦN 2)


admin đăng vào lúc 12:49 PM, ngày 08-12-2014.


CHƯƠNG THỨ BA
CÓ TÀI MÀ CẬY CHI TÀI


“Khôn, mà làm như ngu,
mới là khôn kín”.


Lữ Khôn

ÔNG KHỔNG TỬ ở nước Lỗ vào kinh đô nhà Châu hỏi Lễ ông Lão Tử…

Khi đưa Khổng Tử ra về, Lão Tử có nói: “Tôi nghe người giàu sang tiễn người thì dùng của cải, người nhân hậu tiễn người thì dùng lời nói. Tôi tuy không được giàu sang nhưng mang tiếng là người nhân hậu, vậy xin tiễn Ngài một lời nói vậy: “Nầy, phàm kẻ sĩ đời nay, những người thông minh sâu sắc, xét nét mà có khi đến phải thiệt mạng, đều là vì hay chê bai biếm nhẽ, nghị luận tâm sự người ta cả; những kẻ biện bác rộng rãi xa xôi mà có khi phải khổ đến thân, đều là kẻ hay bươi móc phơi bày cái xấu cái dở người ta ra”.

Khổng Tử cúi đầu thưa: “Vâng. Tôi xin nghe lời dạy bảo ấy”.

Lão Tử nói tiếp: “Tôi nghe rằng: Nhà buôn giỏi, khéo chứa của quý thì làm như người không có gì. Người quân tử thanh đức, dung mạo như người ngu. Ngài nên bỏ cái kiêu khí và đa dục, cái sắc thái và dâm chí của Ngài đi. Nó không lợi gì cho cái thân ngài cả”.[vi]

*


Thật đây là một bài học xử thế thâm trầm, sâu sắc không biết chừng nào.

Có của quý mà khoe là vời hại đến cho thân mình. Có tài giỏi mà khoe là vời họa đến cho thân mình… Của quý, tài hay, sắc đẹp… là những điều mà ai ai cũng muốn. Muốn mà không đặng thì ganh. Ganh thì tìm cách mà làm hại cho đã lòng đố kỵ… Đó là lẽ dĩ nhiên nó phải vậy.

"Có Tài mà cậy chi tài,

Chữ Tài liền với chữ Tai một vần...".

Tào Tháo có lập một sở hoa viên. Lập rồi, đến xem không chê mà cũng không khen, chỉ viết một chữ hoạt rồi ra đi, không ai rõ ý gì cả.

Dương Tu nói: “Trong cửa mà viết chữ hoạt thành ra chữ khoát có nghĩa là rộng. Thừa tướng chê cửa nầy rộng”. Thợ bèn sửa nhỏ lại một tí. Tào Tháo đến xem, cả mừng hỏi: “Ai mà biết ý ra hay vậy?”. Kẻ tả hữu thưa: “Ấy là Dương Tu”.

Tháo nghe nói, khen, nhưng trong lòng không thích…

Lại có một khi ngoài ải Bắc đem dưng một thố cơm rượu, Tháo bèn đề nơi nắp thố: “Nhứt hiệp tô”. Rồi để trên ghế.

Dương Tu vào thấy ba chữ ấy, liền dỡ ra, lấy muỗng múc mà chia cho mỗi người một muỗng. Ăn rồi, Tháo ra hỏi: “Vì ý gì vậy?”. Tu thưa: “Trên thố ấy, Thừa tướng đề rõ ràng: “Nhứt hiệp tô”, nghĩa là "Nhứt nhơn nhất khẩu tô”, mỗi người một miếng cơm rượu, cho nên tôi vâng lời Thừa tướng”.

Tháo khen, nhưng trong lòng đã ghét…

Tháo thường hay sợ thích khách, nên dặn kẻ hầu hạ: “Khi ta ngủ, bây đừng lại gần, vì ta chiêm bao hay giết người”.

Một ngày kia Tháo đương ngủ ngày, rớt mền. Có một tên hầu cận lật đật lấy mền mà đắp lại. Tháo ngồi dậy rút gươm chém quách rồi liền lên nằm ngủ lại, giây lâu mới thức dậy, giả giờ thất kinh nói: “Vậy chứ ai giết kẻ hầu cận của ta?”. Mấy người kia cứ thiệt mà trả lời. Tháo khóc ròng, khiến chôn cất tử tế, ai ai cũng đều tin Tào Tháo thiệt chiêm bao giết người. Dương Tu biết ý Tào Tháo, cho nên khi chôn tên hầu cận ấy, bèn chỉ cái hòm nói: “Không phải thừa tướng chiêm bao, mà chính mi chiêm bao đấy?”.

Tháo hay đặng thì lại càng ghét lắm.

…Tháo đóng binh nơi Tà cốc đã lâu ngày, muốn tấn binh thì bị Mã Siêu ngăn đón, tới không nổi, muốn thối binh lại e người bên Thục chê cười… Trong lòng đương dụ dự, xảy người nấu ăn bưng lên dưng một tô canh thịt gà. Tháo thấy có gân gà, cầm lên ăn. Đang ngẫm nghĩ thì Hạ hầu Đôn bước vào xin cho tiếng khẩu hiệu trong đêm nay. Tháo nghe nói liền ra khẩu hiệu: “Gân gà, gân gà”.

Hạ hầu Đôn vâng lệnh ra truyền cho các quan đêm nay khẩu hiệu: gân gà.

Hành quân chủ bộ là Dương Tu khi nghe truyền hai tiếng khẩu hiệu gân gà thì khiến quân của mình sắm sửa đồ hành trang đặng có trở về.

Có người vào báo cho Hạ hầu Đôn. Đôn cả kinh cho mời Dương Tu đến trại mà hỏi: “Sao ông lại khiến sắm sửa đồ hành trang vậy?”. Tu nói: “Lấy theo lời khẩu hiệu đêm nay của Ngụy Vương, thì ý Ngụy Vương sẽ lui binh nội ngày mai. Gân gà là ăn nó không có thịt, mà bỏ thì tiếc nó có mùi. Nay tấn binh thì thắng không nổi, còn thối đi thì e tiếng thiên hạ cười. Song ở đây hoài cũng vô ích, thì bằng về phứt đi. Nội ngày mai ắt là Ngụy Vương rút binh chớ chẳng không. Vậy tôi khiến sắm sửa lần, để ngày mai khỏi chộn rộn”.

Đôn khen: “Ông thật là thông minh, biết trong tim đen của Ngụy Vương”. Bèn khiến quân mình cũng sắm sửa đồ hành trang nữa. Các tướng thấy vậy đều bắt chước sắm sửa lo về.

Đêm ấy, Tào Tháo lo lắng nằm ngủ không yên, bèn xách búa đi tuần các trại. Thấy trại Hạ hầu Đôn đều sắm sửa lo về. Tháo lấy làm lạ, vội vàng trở về, khiến đòi Hạ hầu Đôn lại hỏi: “Vì cớ gì, binh lính sắm sửa hành trang lo về, chưa có lịnh của ta?”. Hầu Đôn thưa: “Hành quân chủ bộ Dương Tu đã biết trước trong lòng của Đại Vương”, Tào Tháo cho đòi Dương Tu đến hỏi: “Sao mi dám bày điều mà làm loạn lòng quân?”. Bèn kêu đao phủ thủ khiến dẫn ra chém, lấy thủ cấp bêu lên làm hiệu lịnh ngoài cửa ngọ môn.

*


Bảo rằng: Sao dám bày điều làm loạn lòng quân, chỉ là có cái cớ để đem Dương Tu ra chém. Sự thật cái ý chém Dương Tu đã ngấm ngầm trong lòng Tháo lâu rồi. Ngay buổi ban đầu, lúc sửa cửa ở hoa viên, cái thông minh của Dương Tử đã làm khó chịu Tháo rồi… Chính ngày ấy Dương Tu đã tự lên bản án chém đầu mình… Chẳng phải riêng gì Tháo, cái lòng đố kỵ ấy nó ở trong thâm tâm của tất cả mọi người; không ai mà ưa có người thông minh hơn mình, nhứt là lại hay khoe cái khôn ấy.

Thông minh như Dương Tu, thế mà không biết giữ mình được toàn thân, thật không bằng một kẻ ngu “Người buôn giỏi khéo giữ của quý, thì làm như người không có gì… Người quân tử có thanh đức, dung mạo như người bạn…”.


admin đăng vào lúc 12:54 PM, ngày 08-12-2014.


Lưu Huyền Đức lúc ở chung với Tào Tháo tại triều thường lo phòng Tào Tháo hại. Thường ngày ông ra sau vườn mà trồng rau, tự tay bón phân tưới cây…

Quan và Trương nói: “Sao anh không lưu tâm về việc thiên hạ đại sự, lại học làm những việc của tiểu nhân. Ý gì vậy?”.

Huyền Đức nói: “Ấy chẳng phải chỗ hai em biết đặng”.

Hai người không dám hỏi nữa.

Ngày kia, Huyền Đức đang tưới rau sau vườn thì có lệnh Tào Tháo đến mời…

Huyền Đức cả sợ, hỏi: “Việc chi gấp vậy?”.

Các tướng trả lời không biết. Ông bèn theo vào phủ ra mắt Tào Tháo.

Tào Tháo gặp Lưu Huyền Đức, cười bảo: “Ông ở nhà đã làm nên việc lớn dữ a!”.

Huyền Đức thất sắc, Tháo cầm tay Huyền Đức dắt thẳng ra sau vườn “Huyền Đức học làm vườn có khi nực lắm!”. Huyền Đức nghe nói mới an lòng, liền đáp: “Không chuyện chi, nên phải làm cho giải khuây đó thôi!”.

Khi ra sau tiểu đình thì thấy đã sẵn bày đồ đạc và chén.

Tháo nói: “Tôi thấy nhành mai đơm bông thơ thới thì nhớ đến lúc đi đánh Trương Tú, dọc đường hết nước, tướng sĩ đều khát. Tôi mới bày ra một chước “vọng mai chỉ khát” lấy roi chỉ tới mà rằng: “Trước mặt có rừng mai kia kìa!”. Quân sĩ nghe nói, ai nấy đều đổ nước miếng mà hết khát nước. Nay thấy cây mai này, chẳng lẽ mà không thưởng cho vui, vậy mới đặt rượu ngon, mời sứ quân đến vui vầy một tiệc”.

Hai người cùng ngồi ngang nhau mà ăn uống vui vầy. Rượu vừa nửa chừng, bỗng đâu mây đen kéo tới, dông gió ào ào. Quân sĩ chỉ rằng: “Rồng lấy nước kia kìa!”.

Tào Tháo và Huyền Đức ra xem. Tháo mới hỏi Huyền Đức.

- “Sứ quân biết rồng biến hóa thế nào chăng?”.

Huyền Đức thưa: “Chưa biết rõ lắm”.

Tào Tháo nói: “Tánh rồng hay lớn hay nhỏ, hay thăng hay ẩn; khi lớn thì làm mây mưa sa mù, khi nhỏ thì ẩn bóng giấu hình. Thăng thì bay tung nơi vũ trụ, ẩn lộn thì núp dưới ba đào. Nay lúc mùa xuân, rồng nương theo thời mà biến hóa cũng như người đắc chí tung hoành trong bốn bể vậy. Rồng là một vật sánh đặng với bực anh hùng trên đời. Huyền Đức trải khắp bốn phương đã lâu, có lẽ biết đặng anh hùng trong đời này. Xin chỉ ra thử xem”.

Huyền Đức nói: “Bị tôi, con mắt thịt, lẽ đâu biết đặng anh hùng”.

Tào Tháo nói: “Chớ có khiêm nhường chi cho thái quá!”.

Huyền Đức nói: “Tôi nhờ Ngài giúp sức nên mới đặng làm quan tại trào, còn anh hùng trong thiên hạ, thật chưa biết đặng”.

Tào Tháo nói: “Tuy chưa biết mặt nhưng cũng biết danh chứ!”.

Huyền Đức chỉ Viên Thiệu, Viên Thuật, Lưu Kiển Thăng, Tôn Bá Phù, Lưu Quí Ngọc… Tháo đều lắc đầu, chê là lục lục thường tài. Huyền Đức bèn nói: “Ngoài bọn ấy, thì thật tôi không biết ai nữa cả”.

Tào Tháo nói: “Hễ đấng anh hùng thì trong dạ có chí lớn, bụng có mưu hay, gồm giấu máy vũ trụ, có chí nuốt trời mửa đất, mới thật anh hùng”.

Huyền Đức nói: “Ai mà sánh đặng điều ấy? Tôi thật không hiểu nổi”.

Tào Tháo lấy tay chỉ Huyền Đức, rồi lại chỉ mình mà rằng: “Nay đấng anh hùng trong thiên hạ duy có sứ quân cùng Tháo mà thôi”.

Huyền Đức nghe nói thất kinh, đôi đũa cầm trong tay bỗng rớt xuống đất. Lúc bấy giờ trời đang mưa lớn, sấm sét nổ rền. Huyền Đức thủng thẳng cúi đầu lượm đũa mà rằng: “Một tiếng oai sấm mà đến đỗi nầy!”.

Tào Tháo cười, nói: “Đại trượng phu cũng sợ sấm nữa à!”.

Huyền Đức nói: “Đến đỗi Thánh nhơn nghe sấm to gió lớn còn đổi sắc, có lẽ nào chẳng sợ”.

Tào Tháo nghe nói yên lòng, không còn nghi Huyền Đức là có đại chí.

Mãn tiệc Huyền Đức ra về. Đem chuyện rớt đũa nói lại cho Quan, Trương nghe. Quan, Trương hỏi: “Ý gì vậy?”. Huyền Đức nói: “Ta học làm vườn là có ý muốn làm cho Tào Tháo biết ta không có chí lớn. Chẳng dè Tháo lại gọi ta là anh hùng, nên ta thất kinh rớt đũa, làm bộ dối rằng sợ sấm… để Tháo không nghi là ta có đởm lược anh hùng”. Quan, Trương đều nói: “Anh thật cao kiến, chúng em không sao hiểu kịp”.

*


Nhờ thế, Huyền Đức mới thoát khỏi tay Tào Tháo mưu hại.


admin đăng vào lúc 12:56 PM, ngày 08-12-2014.


Người như thế mà có lúc cũng sơ ý để lộ chí mình, xuýt nguy đến thân. Lúc qua ở cùng Lưu Biểu, một ngày kia đi tiểu tiện thấy bắp vế xổ vùng liền sa nước mắt. Lưu Biểu thấy Huyền Đức mặt có hơi khóc, lấy làm lạ hỏi.

Huyền Đức thưa: “Em thuở nay mình chẳng lìa yên, thịt vế đều tan, nay đã lâu lắm chẳng lên lưng ngựa, thịt đùi ấy xổ ra. Ngày tháng đã gần hết, tuổi đã gần già mà sự nghiệp không ra gì hết, cho nên em buồn”.

Lưu Biểu nói: “Anh nghe lúc em còn ở Hứa Xương uống rượu với Tào Tháo nơi vườn mai mà đàm luận anh hùng. Lúc ấy em chỉ hết danh sĩ đời này mà Tào Tháo chẳng chịu, lại nói rằng: “Anh hùng trong thiên hạ này, duy có em với Tào Tháo mà thôi. Sánh quyền lực của Tào Tháo như vậy mà chẳng dám khinh em, thì lo gì công nghiệp chẳng nên”.

Huyền Đức nhân rượu hứng chí đáp:

“Nếu Bị mà có sẵn cơ bổn, thì những bọn lục lục trong thiên hạ nào có lo gì!...”.

Lưu Biểu nghe nói làm thinh, trong lòng không vui. Huyền Đức biết mình đã lỡ lời, bèn giả say, từ tạ lui về quán dịch mà nghỉ… Rồi thừa cơ trốn mất…

*


Hồ Khưu Trượng nhân nói với Tôn Thúc Ngao: “Có ba điều chuốc oán, ông có hiểu chưa?”. Tôn Thúc Ngao nói: “Tôi chưa được biết”. Trương nhân nói: “Tước vị cao, người ta ganh. Quyền thế lớn, người ta ghét. Lợi lộc nhiều, người ta oán”.

Tôn Thúc Ngao nói: “Không phải luôn luôn như thế. Tước vị tôi càng cao, thì tôi càng xử nhún nhường hơn. Quyền thế tôi càng lớn, thì tôi càng ở khiêm cung hơn. Lợi lộc tôi càng nhiều, thì tôi càng chia sớt cho người chung quanh. Như thế làm gì bị thù oán của thiên hạ”.[vii]

Khi Tôn Thúc Ngao bệnh nặng, lúc gần chết kêu con dặn: “Nhà vua muốn phong ta đất. Ta đã chối từ. Sau khi chết, thế nào nhà vua cũng phong cho ngươi. Ta không bằng lòng người lãnh những đất tốt. Nếu phải nhận thì giữa Sở, Việt có ngọn núi không tốt mà tên nó cũng không đẹp, hãy nài miếng đất ấy, thì khỏi sợ ai dòm ngó”.

Tôn Thúc Ngao chết. Vua phong đất cho người con. Y theo lời cha dặn, người con xin phong cho mình miếng đất ấy. Con cháu đời đời giữ nó không mất”.[viii]


admin đăng vào lúc 12:57 PM, ngày 08-12-2014.


“Dương Tử sang Tống vào ngủ ở một nhà trọ. Người chủ nhà trọ, có hai cô vợ lẽ. Một người đẹp, một người xấu.

Dương Tử thấy trong nhà ai cũng quý người thiếp xấu, mà khinh người thiếp đẹp, lấy làm lạ hỏi dò thằng trẻ trong nhà trọ.

Thằng nhỏ nói: “Người thiếp đẹp, tự cho là mình đẹp, nên mất đẹp, chúng tôi cũng chẳng nhìn thấy cái đẹp của họ nữa. Người thiếp xấu, tự biết là mình xấu nên không ai nhìn ra cái xấu của họ nữa”.

Dương Tử kêu học trò bảo:

- Các con đâu? Nhớ ghi lấy: “Giỏi mà không làm cho người ta thấy cái giỏi của mình, đi đâu mà chẳng được người yêu!”.[ix]

Epictète, một hiền giả Hi Lạp, sống một cách bình dị hết sức. Trong nhà ông chỉ có một cái giường cây, cái bàn nhỏ để một ít sách và một cây đèn sắt.

Thế mà một đêm hôm, ăn trộm vào, bưng cây đèn sắt của ông mất.

Sáng ngày, hay ra, ông bèn bảo với các đệ tử:

- “Thằng bợm nầy, rồi đây sẽ cụt hứng”.

Ông bèn cho đi mua cây đèn đất để thay vào. Thật vậy, cây đèn ấy ông giữ mãi suốt đời.

Ông tự trách, tại ông dùng cây đèn sắt mới có giục lòng tham của tên trộm. Lỗi nơi ông, nào đâu lỗi của người trộm kia. “Kẻ đeo ngọc có tội, người trộm ngọc không có tội”.

Người xưa xử với mình rất nghiêm, mà xử với người rất khoan, bởi vậy, suốt đời không gặp họa. “Đừng trọng người hiền là làm cho lòng dân không tranh, không quý của khó đặng là khiến lòng dân không trộm đạo; không khoe điều có thể ham muốn được là khiến lòng người không loạn”.[x]


admin đăng vào lúc 12:58 PM, ngày 08-12-2014.


Một nhà văn có nói: “Người ta đau khổ là vì thấy cái hạnh phúc của kẻ khác. Cái khổ của người nghèo ở chỗ đó”.

Có đúng như vậy. Cái đau khổ của đám dân nghèo, thật ra chưa phải cảnh đói rét lầm than của họ, mà chính là cái cảnh xa hoa ngạo nghễ của những kẻ phú quý chung quanh.

*


“Khổng Tử bị vây ở giữa Trần Sái, bảy ngày không cơm ăn.

Thái Công Nhậm đến thăm nói:

- Ông sắp chết chăng?

- Vâng!

- Ông ghét chết chứ?

- Vâng!

- Này! Cây thẳng thường bị chặt trước. Giếng ngọt thường bị cạn trước. Ông chắc là trang sức trí thông minh để kinh sợ kẻ ngu hèn; tu thân để tỏ mình trong hơn người nhơ đục; đi ra ngoài hách dịch, lồ lộ như mặt trời, mặt trăng… Bởi vậy, ông cũng khó mà thoát khỏi cái nguy trước mắt…”.[xi]

… “Kìa như con cáo lớn, beo vằn, sống nương náu nơi rừng sâu núi rậm, núp bóng ở hang cùng hóc hiểm, đêm đi ngày ẩn, tuy đói khát cũng vẫn lẩn lút nơi sông hồ… thế mà cũng không thoát khỏi cái nạn dò, lưới, cạm bẫy… Chúng nó phải tội tình gì? Chỉ vì tại cái bộ da lông mướp đẹp của chúng vời họa hại đến chúng…”.

*

Có của quý, có tài hay… chưa ắt luôn luôn là cái may mắn cho chúng ta vậy!

*


Có người kia, chết chôn chưa được ba ngày… Một tên đạo tặc giữa đêm đào thây lên, lột hết vàng bạc trong mình, rồi lại còn xách búa đập bể mặt bể mồm…

Thù gì dữ vậy? Không! Chỉ vì khi chôn, người ta cho người ấy ngậm viên ngọc quý trong miệng.

Chết rồi, mà cũng không nằm yên được trong mồ…

Số trời ư? Hay là vì ngu dại?

(HẾT PHẦN 3)


admin đăng vào lúc 12:59 PM, ngày 08-12-2014.


CHƯƠNG THỨ TƯ
ÂN VÀ OÁN…


“Ân càng thâm
thì oán càng sâu”


VỞ TUỒNG “Cuộc du lịch của anh Perrichon”[xii], đoạn chót làm cho tôi hết sức ngao ngán và bâng khuâng.

Anh Perrichon cùng vợ và con gái đi du lịch ở Thụy Sĩ. Trong khi đi lại có hai chàng trai trẻ cùng theo là Armand và Daniel, cả hai đều gắm ghé “tiểu thơ” Perrichon.

Armand được cái hân hạnh là cứu Perrichon ba lần: lần đầu ở tại Montauvert, khi Perrichon bị té ngựa, xuýt sa vào hố sâu thăm thẳm. Lần thứ nhì Armand “dàn xếp” cho một cuộc Perrichon bị thưa về tội phỉ báng được ổn thoả. Lần thứ ba, chàng lại cứu Perrichon khỏi phải đánh gươm với một võ quan. Armand giàu có, lại ưa làm ơn…

Còn chàng Daniel, thay vì “thích ra ơn” lại “thích chịu ơn”. Chàng khôn khéo làm bộ té hố để Perrichon có dịp ra ơn cứu chàng… Bởi vậy, Perrichon thích chàng mà lại ghét Armand. Nên khi Armand giợm hỏi cưới con gái anh, thì anh lại nhứt định gả con gái cho Daniel.

Tại sao vậy? Vợ anh, con gái anh, mà cả thiên hạ chung quanh đều đinh ninh rằng rể của anh chắc chắn là người ân nhân của anh, cái người đã cứu tử hoàn sanh anh kia mà! Té ra, trái ngược lại, anh muốn gả con cho cái chàng chịu ân của anh, cái anh chàng hằng giờ hằng buổi nhắc nhở đến ân huệ cứu tử của anh…

Thật ra là một tấn kịch cốt làm cho người ta cười… cười ra nước mắt. Tâm sự của Perrichon là tâm sự của mọi người. E. Labiche là người rất am hiểu thâm tâm con người đó để vậy.


admin đăng vào lúc 7:21 PM, ngày 08-12-2014.


Daniel trách Armand rất đúng:

- Anh tưởng rằng, sự anh cứu ông là một kỷ niệm êm đềm cho ông lắm sao? Không. Không! Trái lại, nó chỉ nhắc nhở cho ông nhớ luôn rằng: thứ nhất, ông không biết cỡi ngựa; thứ nhì, ông đã sai lầm, mà mang định thức ngựa, mặc dầu bà vợ đã cản không cho mang; thứ ba, sự té ngựa vụng về của ông đã để một trò cười cho thiên hạ… Lại nữa, trong khi anh làm cách để ngăn ngừa không cho xảy ra cuộc đấu kiếm của ông, anh đâu có làm ân gì cho ông, mà trái lại, anh chứng minh cho ông thấy, như hai với hai là bốn, rằng anh không coi vào đâu cái can đảm anh hùng của ông…”

Thay vì làm ơn cho Perrichon như chàng Armand, Daniel làm bộ té hố, để cho Perrchon được cơ hội thi ân, được cơ hội hãnh diện với người chung quanh cái gan ruột anh hùng của mình… Làm ơn cho Perrichon, Armand vô tình chạm đến lòng tự ái của Perrichon; còn thọ ân Perrichon, Daniel đã cố ý làm tăng cái lòng tự đắc của Perrichon. Bởi vậy người ta bao giờ cũng yêu người mình ban ân hơn là người mình thọ ân.

Thọ ân người tức là chịu có người trên mình, còn ban ân người tức là được ở trên người. Chữ Ân là chữ đè trên chữ tâm. Mà chữ nguyên tự là hình vẽ một người đứng giữa bốn vách tường, đồng với chữ tù. Người xưa bày ra chữ Ân, thật là khám phá được tâm sự của người vậy.

Trách nào cổ nhân không thường bảo ta:

“Thi ân mạc niệm

Thọ ân mạc vong”

Thi ân là làm nhục lòng tự ái của người; thường thường kẻ làm ân hay có khuynh hướng tự hào và ngạo nghễ… Vì làm ân cho người tức là đàn áp được người, làm chủ người ta… Bởi vậy, cổ nhân muốn chế lại, bảo: “Thi ân mạc niệm…”

Thọ ân là bị nhục đến lòng tự ái, thường hay tìm cách để thoát khỏi cái nhục ấy bằng sự bội ân… Bội ân bằng đủ phương thế. Vậy chớ tìm cách trả ân, không phải là tìm cách để thoát khỏi một cái “nợ”, hơn nữa, một cái “nhục” là bị người ban ân hay sao?

Một nhà tư tưởng có nói: “Vội vàng trả ân, là tỏ ra vội vàng phản bạc”. Người ta không muốn mang ân mình lâu ngày… Vì vậy, “óc bội phản chỉ là óc cao ngạo, tỏ ra một “tâm hồn tự do”[xiii], thế thôi. Nó là tâm trạng hết sức tự nhiên của loài người. Bởi thế, cố nhân mới lo lắng căn dặn: “Thọ ân mạc vong…”

Chàng Daniel rất am hiểu tâm lý của Perrichon, nên thay vì lo “dàn xếp” một cách công khai dàn giá như Armand, anh ta lén viết thư cho Cảnh sát hay để can thiệp không để cho cuộc đấu kiếm xảy ra. Mỗi khi chàng muốn làm một cái ơn gì cho Perichon, thì chàng làm một cách “núp lén”, “che đậy”… bao giờ anh cũng tránh cho Perrichon đừng mất mặt. Anh nói: “Khi mà tôi phải bước chân vào cảnh khổ của người đồng loại của tôi, thì tôi bao giờ cũng đi bằng dép rơm, và không dám mang theo một chút ánh đèn nào cả, phập phồng cũng như tôi đi vào cái lò thuốc đạn vậy”. Thật anh dùng chữ rất đúng: cái cảnh khốn khổ của người ta quả thật là một cái lò thuốc đạn. Không khéo, một chút lửa đủ cho nó nổ bùng ra dữ tợn…

Còn gì rõ ràng hơn nữa: Chính Perrichon cùng đã phải bực dọc la lớn lên rằng:

“Không, không, ông ạ, người ta không thể đàn áp tôi được nữa đâu!... Thôi đi, những giúp đỡ, những ân huệ của người ta…!”


admin đăng vào lúc 7:22 PM, ngày 08-12-2014.


Câu chuyện tuy trớ trêu, nhưng mà miêu tả được một cách sâu sắc tâm sự của loài người lòng tự ái khiến ta làm những điều quái gở.

Cũng như câu chuyện về cái chết của Hàn Tín sau đây là một.

*


Thuở nhỏ, mỗi khi đọc đến cái chết của Hàn Tín thì trong lòng thấy như có điều bất mãn… Sau khi ném quyển sách đi, lòng không khỏi ngậm ngùi thương tiếc… Thương tiếc rồi lại trách Bái Công phi ân bội nghĩa đủ điều…

Nhưng về sau, có được chút ít tuổi và kinh nghiệm sự đời… thì lại trông thấy Hàn Tín sở dĩ bị tru diệt, không riêng gì lỗi ở Bái Công, mà chính nơi cách xử thế vụng về của Hàn Tín.

Ta thử tìm hiểu hai tâm hồn ấy.

*


Hàn Tín xuất thân nghèo khổ. Lúc chưa gặp thời, câu cá ở dưới thành. Có Phiếu mẫu thấy Tín đói, cho Tín ăn cơm. Tín mừng bảo:

- Tôi tất có lúc đền ơn bà!

Phiếu mẫu giận, nói:

- Kẻ đại trượng phu không nuôi nổi thân, tôi thương cậu mà cho cơm ăn, há lại mong đền ơn ư!

Trong hàng thịt ở Hoài âm, có chàng trẻ tuổi trêu Tín, giữa đám đông, nhiếc Tín:

- Tín có dám đâm chết được tao không? Không đâm được, hãy luồn trôn tao đây!

Tín nghĩ mình chưa làm gì nên đại nghiệp, mà nay phải lôi thôi, có khi đến mạng thường mạng với một tên vô loại này, thì cũng tủi… thật, nên dằn lòng nhẫn nhục, chui qua háng chàng kia… Người cả chợ đều cười Tín, cho là hèn nhát.

Đến khi Hạng Lương qua sông Hoài, Tín chống gươm theo hầu… Hạng Lương thua, lại theo về tới Hạng Võ. Võ cho làm lang trung chấp kích. Nhiều lần bày mưu cho Hạng Võ, nhưng Võ không dùng.

Hán Vương khi vào Thục, Tín trốn Sở về với Hán. Lại chỉ được phong làm chức Liên Ngao, coi kho lúa. Tiêu Hà và Đặng Công biết là người đại tài, đã không biết bao lần tiến cử Hán Vương mà Hán Vương vẫn không trọng dụng, nên Hàn Tín bỏ Hán mà trốn đi… nếu Tiêu Hà không chạy theo bắt kịp.


admin đăng vào lúc 7:22 PM, ngày 08-12-2014.


Trở lên, ta thấy Hàn Tín một đoạn đời đã trải qua không biết bao nhiêu tủi nhục. Bởi vậy, trong tâm hồn bao giờ cũng bị cái tâm cảm tự ty… lòng tự ái đã bị chạm nặng và dồn ép lâu ngày khiến nên trong đời chàng không biết bao lần ngoan ngạnh và khiêu khích… đối với Hán Vương.

Tiêu Hà rất am hiểu tâm sự ấy của Hàn Tín nên khi Hán Vương thấy giác thư của Trương Lương, muốn phong Tín làm Đại Tướng một cách suông, bèn nói:

- Bệ hạ muốn phong cho Hàn Tín cách nào?

- Thì vời y đến mà phong chứ sao?

Tiêu Hà lắc đầu, nói:

- Không được. Bệ hạ vốn đã kiêu ngạo không thủ lễ với Hàn Tín lâu nay rồi, giờ lại phong một chức Đại Tướng mà hình như gọi một đứa trẻ con. Ở Bệ hạ thì cho thế là trọng, mà theo ý ngu thần e rằng Hàn Tín rồi sẽ cũng đi mất.

Hán Vương nói:

- Vậy thì phải phong cách nào?

- Nếu bệ hạ muốn phong Hàn Tín, nên chọn ngày chay giới, lập đàn tế cáo thiên địa như Hoàng đế phong cho Phong Hậu, Vũ Vương phong cho Lữ Vọng vậy… tức là lễ bái tướng.

Hán Vương bằng lòng. Đấy là Hàn Tín đặng hả lòng… mà Hán Vương đã bị chạm, một cách vô tình, lòng tự ái rồi… Lòng Hán Vương đã bị một tỳ vết, hột giống đã khởi đầu âm thầm bắt mộng…


*


Lúc Hàn Tín tương binh đại phái Tam Tần và lấy Hàm Dương rồi, thì Hán Vương bàn với Hàn Tín tính việc đông chinh. Tín không bằng lòng, cố hết sức giãi bày những việc lợi hại, thế mà Hán Vương vẫn không nghe. Mặc dầu Trương Lương hết sức cản ngăn, Hán Vương cũng nằng nằng quyết một, lấy ấn soái của Hàn Tín lại mà ban cho Ngụy Báo. Trận ấy Hán Vương làm một việc liều lĩnh phi thường, nên bị Hạng Võ đánh một trận không còn manh giáp, xuýt bỏ thân trong trận địa.

Người như Hán Vương khôn ngoan sâu sắc, thời thường bao giờ cũng nghe Tử Phòng, cung kính như bậc thầy… Thế sao, ngày nay bỗng dưng hôn ám, đã không chịu nghe Hàn Tín lại chẳng kể Tử Phòng? Trước sự thành công rực rỡ của Hàn Tín… “trăm trận trăm thắng”… trong thâm tâm Hán Vương không mấy vui lòng… Cơ hội đến, Hán Vương muốn tỏ rằng mình cũng có tài chinh phạt như ai… Bởi vậy, mới có cái cử chỉ sỗ sàng là cướp ấn nguyên nhung mà trao cho Ngụy Báo, làm một việc dại dột càn rỡ mà một người thông minh như Hán Vương lắm khi tự hỏi với lòng không hiểu làm sao mà cắt nghĩa.

Cách xử lý vụng về và vô tâm ấy của Hán Vương lại chạm đến lòng tự ái của Hàn Tín thêm một phen nữa.

Bởi vậy, khi Hàn Tín trả ấn nguyên nhung về cố thủ Lạc Dương, Hán Vương cho triệu cũng không về. Tiêu Hà bâng khuâng nói với Tử Phòng:

- Hàn Tín từ khi ở Lạc Dương về, thường phàn nàn rằng: Hán Vương không nghe lời nói phải, lại cướp tướng ấn mà cho Ngụy Báo, không nhớ đến công phá Tam Tần, lấy Hàm Dương. Khi nghe Đại Vương (Hán Vương) bị thua rất nặng ở Truy Thủy, thì Tín lại đóng cửa không tiếp khách, tôi đến mấy lần cũng không được tiếp, xem ý như muốn cho Vương tự thân đến mời mới được vậy…

Câu nói ấy của Tiêu Hà thật là tỏ rõ được tâm sự của Hàn. Óc làm phản của Hàn, đã bắt đầu manh nha trong tiềm thức. Nếu Trương Tử Phòng không dùng kế khích ông ta thì Hàn Tín chưa chắc chịu nghe lời triệu của Hán Vương mà về Huỳnh Dương mưu phá Sở.

Hán Vương vì lợi cho đại nghiệp của mình, nên bấm bụng bỏ qua cái tội không tuân mạng của Hàn… nhưng trong thâm tâm lòng tự ái đã bị chạm nhiều rồi.

Trong tâm phế của hai người, sự găng nhau càng ngày càng tăng thêm… Nơi Hàn Tín thì lập tâm phản nghịch, nơi Lưu Bang thì sanh dạ bội ân.

Bởi vậy, sau khi Hàn Tín bình định nước Tề rồi, Hán Vương sai sứ đến mời về cùng hợp sức phá Sở. Hàn Tín thừa dịp, bắt bí Hán Vương, viết biểu về tâu xin phong ấn Tề Vương rồi sau sẽ phá Sở. Đấy là cách trả đũa sự cướp ấn nguyên nhung thuở nọ.

Hán Vương xem biểu đòi phong Tề Vương của Tín liền nổi giận:

- Thằng nhãi nầy lại dám giở giọng như thế ư? Ta bị khốn ở đây đã lâu mong nó về giúp ta, chẳng ngờ nó lại chực xưng bá xưng vương như vậy!

Trương Lương, Trần Bình vội sẽ bấm chân Hán Vương rỉ tai nói:

- Đại Vương tuy được mấy chục quận lớn của Sở. Nhưng hiện nay quân Sở đóng ở dưới núi Quảng Vũ để đánh ta, quân ta hiện đang bất lợi, vậy ta có sức đâu cấm nổi Hàn Tín không cho tự lập làm Vương. Chi bằng hãy cứ phong cho hắn, khiến hắn vui lòng thì rồi hắn sẽ giúp Đại Vương được việc. Nếu không mà để hắn tự biến thì sẽ lại sinh một mối lo to.

Thế là Hán Vương một lần nữa phải bấm bụng mà phong vương cho Hàn Tín. Ở vào địa vị Hán Vương, mình là chúa, mà bầy tôi kiêu ngạo ỷ tài, lấn áp và khu sách mình dường ấy… lòng tự ái bị thương tổn không biết là chừng nào. Nhẫn được, nếu không phải là Bái Công chưa ắt có người làm nổi. Nói thì có hơi quá, chứ cái nhục của Hán Vương ngày nay còn nhục hơn là cái nhục của Hàn Tín luồn trôn thuở nọ.

Cái ấn Tề Vương của Hàn Tín thật khó lòng mà bền vững được. Người mà có cái chí đồ vương định bá, khuấy nước chọc trời như Bái Công có thể nào chịu nổi cái nhục ấy không? Chịu nổi nó, chỉ có Bái Công và cũng nhờ thế mà Bái Công làm nên nghiệp đế. Nhưng cái vết thương lòng không làm sao mà hàn gắn được. Cái tước Tề Vương của Hàn Tín, tuy xứng đáng thật, nhưng ngày nào nó còn… nó là cái tiếng chửi trên đầu Hán Vương, là cái gai nhọn trong con mắt của Hán Vương… nó hằng nhắc nhở cho Hán Vương sự sút kém nhục nhã của mình. Cho nên thiên hạ vừa định được, thì cái lo nghĩ trước nhất của Hán Vương là cướp lại ấn Nguyên Nhung của Hàn Tín. Sự đã rõ ràng hết sức.

*


Việc ấy ai mà không rõ, thế mà chỉ có Tín không chịu hiểu.

Hàn Tín tuy hả lòng trả được cái nhục cướp ấn nguyên nhung, lên ngồi trên điện Tề Vương để chịu lễ chào mừng của trăm quan thuộc hạ, nhưng đâu có dè chính ngày ấy là ngày tự rước cái vạ ở cung Vị Ương sau nầy vậy.


admin đăng vào lúc 7:23 PM, ngày 08-12-2014.

Search: